Type V ASTM C150

Xi măng Pooc Lăng bền Sun phát type V (ASTM C150 /C150M-15)

Tại sao phải sử dụng Xi măng Poóc lăng bền Sun phat khi sản phẩm này vừa có giá cao vừa không thông dụng?
Thực tế sử dụng xi măng Portland thông dụng (PC, PCB) để xây dựng các công trình có tiếp xúc với ion Sun phat SO4­­2-, sau một thời gian 5 – 7 năm sẽ có hiện tượng nứt vỡ bê tông. Lấy mẫu bê tông nứt vỡ đi phân tích thấy những hợp chất chứa nhiều sun phát dạng C3A.CaSO4.xH2O và C3A.3CaSO4.yH2.

Trong đó x dao động từ 12- 14 và y dao động từ 31- 32 phân tử nước. Phân tích nhiệt vi sai (DTA) mẫu bê tông có nhiều Sun phat có điểm (pic) thu nhiệt ở nhiệt độ 110 – 150oC. Đem sấy ở 60oC thì số phân tử nước chỉ còn 20, tiếp tục sấy đến nhiệt độ 110oC thì số phân tử nước chỉ còn 8. Nâng nhiệt độ sấy lên 145OC thì chỉ còn 6 phân tử nước, tiếp tục sấy đến 200oC thì nước chỉ còn 2 phân tử. Đưa mẫu đá xi măng và bêtông nứt vỡ vào phân tích rơnghen pha thì xuất hiện pic khá mạnh tại 4,48 Ao. Về sau có nhiều nhà khoa học cho nhiều mẫu ximăng khác nhau đóng rắn trong môi trường sunphat với nồng độ ion SO42- khác nhau đều đi đến kết luận rằng: Hợp chất có thành phần C3A.3CaSO4(31- 32) H2O chính là sản phẩm của kết quả tác dụng của hydro aluminat canxi (C3AH6) với các ion Ca2+ và SO42-  của môi trường mà thành:
C3AH + 3Ca2+ +3SO42-  + (25- 26)H2O = C3A.3CaSO4.(31- 32) H2O.

Người ta đặt tên cho nó là “ettringit” và chính sự tạo thành của nó ở trong các lỗ xốp và vi mao đã gây nứt vỡ đá ximăng và bê tông. Ngoài ettringit ra người ta còn phát hiện thêm sunphat canxi được hình thành do phản ứng của Ca(OH)2từ đá xi măng và bê tông với ion SO42- của môi trường đã gây nứt vỡ bê tông nhưng với hiệu lực bé hơn ettringit do hệ số nở của CaSO4.2H2O so với Ca(OH)2 có ít hơn ettringit so với C3AH6. Bởi các phát hiện nguyên nhân gây nứt vỡ đá xi măng và bê tông nói trên người ta đã đề ra nguyên lý kỹ thuật sản xuất xi măng Portland bền sunphat là hạn chế hai thành phần khoáng clinker Portland là C3A và C3S.

Nhưng hạn chế bao nhiêu cho vừa mà vẫn đảm bảo được mác Xi măng cũng phải qua quá trình nghiên cứu chế tạo và khảo nghiệm thực tế. cho đến những năm 1950 thì công nghệ sản xuất chủng loại Xi măng Portland bền Sun phat đã hoàn thiện. Ở các nước SNG có rất nhiều công trình nghiên cứu quá trình ăn mòn của Xi măng và bê tông giúp cơ sở cho quá trình hoàn thiện công nghệ sản xuất chủng loại Xi măng đặc chủng này
Ngày nay trên thế giới người ta đã thống nhất sản xuất hai loại ximăng Portland bền sun phat. Đó là Xi măng bền Sun phat loại vừa(C3A < 5%) và Xi măng bền Sun phat loại cao(C3A < 3%) mà sự khác nhau giữa chúng là mức độ hạn chế hai khoáng hoạt tính cao nhất của Clinker đã nói ở trên.
Ngoài ra hai khoáng nêu trên, Xi măng bền Sun phat còn khống chế tổng hàm lượng kiềm Na2O + 0,658 K2O không vượt quá 0,6% và hàm lượng cặn không tan phải <1,0, vì kiềm tác dụng với SiO2 tạo thành Silicat Natri và Silicat Kali hoà tan trong nước gây ăn mòn cốt thép.
Chính vì những lý do cơ bản trên mà Xi măng Pooc lăng bền Sun phat tuy vừa có giá cao, vừa không thông dụng nhưng sẽ có hiệu quả cao nhất nếu sử dụng đúng trong môi trường mà nó cần có.
Với kinh nghiệm của mình trong nghành sản xuất Xi măng. Đội ngũ kỹ sư, công nghệ và Cán bộ kỹ thuật dày dạn kinh nghiệm của Cty đã sản xuất thành công  loại Xi măng bền sun phát với đầy đủ các tính năng đã nêu ở trên.
Sản phẩm đã được Thủ tướng chính phủ tặng Bằng Khen và đạt giải thưởng “ Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam”. Xi măng chịu mặn đang được ứng dụng có hiệu quả trong sản xuất và đời sống, góp phần vào sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

TƯ VẤN KHÁCH HÀNG